BÀI 4
TỪ GIÔ-ĐANH ĐẾN GHINH-GANH
Kinh Thánh Giô suê 3:1-5:15
Mục tiêu:
-
Giúp học
viên nhận biết và kể ra được thể nào phép lạ Chúa làm cho Y-sơ-ra-ên tại Giô-đanh,
việc Chúa truyền cho họ lập đài tưởng niệm tại Ghinh-ganh để ghi nhớ việc Chúa
làm.
-
Giúp học
viên cảm nhận được phước hạnh bởi phép lạ báp tem bằng Đức Thánh Linh và ghi nhớ
cột mốc lịch sử trong đời sống theo Chúa, nhìn biết những gì Chúa làm cho mình
trong quá khứ để rút ra bài học cho tương lai.
-
Giúp cam kết
bước đi và vâng lời Chúa dựa vào bài học lịch sử của đời sống mình.
Dẫn nhập:
Nhiều
người thường không có cái nhìn đúng về quá khứ mình. Có người cố quên một quá
khứ đau buồn, người khác lại cố nhớ một quá khứ vẻ vang. Nhiều khi, điều cố
quên thì lại nhớ, điều cố nhớ thì lại quên. “Người
ta thường nuối tiếc quá khứ, mơ ước về tương lai, nhưng chán nản với hiện tại”.
Thật
ra Thánh kinh cho chúng ta biết Đức Chúa Trời tể trị trên tất cả dòng lịch sử của
nhân loại. Ngài cũng luôn có mặt với con cái Ngài chẳng những trong hiện tại mà
còn cả quá khứ và tương lai nữa. Vì thế, đối với Cơ-đốc nhân, không có một quá
khứ nào chỉ để quên đi, cũng không có sự vẽ vang nào chỉ để nhớ đến. Đức Chúa
Trời luôn muốn con cái Ngài lưu giữ quá khứ đã qua, đánh dấu những kỷ niệm và
xem nó như một người thầy tốt để dạy chúng ta phải làm gì trong tương lai. Người
khôn ngoan là người biết nhìn lại quá khứ để nhận ra ý muốn Chúa dành cho mình
và cẩn thận làm theo để được phước trong tương lai.
Khép lại câu chuyện đẹp đẽ của các thám tử và nàng
Ra-háp, người kể chuyện tiếp tục trở lại câu chuyện chinh phục đất hứa của
Y-sơ-ra-ên. Thời khắc quan trọng đã đến. Khi hội đủ cả ba yếu tố “Thiên thời, địa
lợi, nhân hòa”, Giô-suê truyền lịnh xuất phát. Một lần nữa dân Y-sơ-ra-ên kinh
nghiệm phép lạ Chúa làm khi Ngài dẫn dắt họ đi ngang qua một dòng nước. Đức
Chúa Trời lại tiếp tục rẽ nước sông Giô-đanh để đoàn dân Y-sơ-ra-ên đi qua như
đi trên đất khô. Tuy nhiên trong lần này, sau khi qua khỏi Giô-đanh, Chúa truyền
cho họ một mạng lệnh lạ lùng: Sai mười hai người đại diện mười hai chi phái
Y-sơ-ra-ên, lấy mười hai tảng đá dưới sông Giô-đanh để lập một đài tưởng niệm
nơi trạm đầu tiên mà họ nghỉ đêm sau khi qua khỏi sông… Sau đó, Chúa còn truyền
cho Y-sơ-ra-ên thực hiện những nghi lễ đặc biệt như phép cắt bì và Lễ Vượt qua
cho cả dân sự tại đó.
Quảng đường từ Giô-đanh đến
Ghinh-ganh là một khoảng cách chỉ bằng một ngày đường, Ghinh-ganh cũng chỉ là một
nơi tạm dừng chân, nhưng tại đây đánh dấu một cột mốc vĩ đại trong lịch sử của
Y-sơ-ra-ên. Sau khi bước qua Giô-đanh, tình trạng của Y-sơ-ra-ên đã hoàn tòan thay
đổi. Bên kia sông, họ thuộc quyền kiểm soát của Ai cập, nhưng bên này sông, họ
được tự do. Bên kia sông, họ bị kẻ thù rượt đuổi, nhưng bên này sông họ rượt đuổi
kẻ thù. Bên kia sông, họ phải lượm ma-na để ăn mỗi ngày, nhưng bên này sông họ
bắt đầu ăn thổ sản của xứ…Ai cập là quá khứ, nhưng Ca-na-an chính là tương lai.
Có thể Ai cập là một quá khứ đáng buồn, nhưng Ca-na-an là một tương lai đáng nhớ.
Và ở nơi chính giữa quá khứ và tương lai đó, Đức Chúa Trời truyền cho dân
Y-sơ-ra-ên lập đài tưởng niệm để nhớ lại hầu nhận biết ý muốn Chúa và sống tốt
đẹp hơn.
Hình ảnh minh họa:
![]() |
Biển Đỏ Giô-đanh
Câu chuyện tại Giô-đanh và Ghinh-ganh cũng đem đến sự
dạy dỗ cho Cơ-đốc nhân ngày nay về một biến cố thuộc linh quan trọng khác trên
đường theo Chúa. Tại Giô-đanh có nhiều điều mà Y-sơ-ra-ên cần phải ghi nhớ, cũng
vậy Cơ-đốc nhân cần ghi nhớ những ơn phước lẫn đau buồn của mình trong quá khứ để
rút ra một bài học thuộc linh hầu sống tốt hơn trong tương lai.
I. PHÉP LẠ TẠI GIÔ-ĐANH (3:1-17)
Đây là lần thứ hai Đức
Chúa Trời dẫn Y-sơ-ra-ên ngang qua dòng nước. Lần thứ nhất sau khi ra khỏi ách
nô lệ tại Ai cập, Đức Chúa Trời rẽ biển đỏ để họ đi qua (Xuất 14:21-31). Lần thứ
hai Đức Chúa Trời lại rẽ sông Giô đanh (Giô 3:15-17). Thử so sánh điểm giống và
khác nhau của hai sự kiện này giúp chúng ta tìm ra ý nghĩa thuộc linh của nó:
A.
GIỐNG NHAU:
NỘI DUNG
|
VƯỢT BIỂN ĐỎ
|
VƯỢT GIÔ ĐANH
|
Đối tượng
|
Đoàn dân Y-sơ-ra-ên + dân
ngoại
|
Đoàn dân Y-sơ-ra-ên + dân
ngoại
|
Nan đề
|
Phải vượt qua nước (biển Đỏ)
|
Phải vượt qua nước (sông
Giô đanh)
|
Phương cách
|
Chúa rẽ nước tạo thành con
đường cho dân sự đi qua
|
Chúa rẽ nước tạo thành con
đường cho dân sự đi qua
|
Tình trạng
|
Đi qua dòng nước
|
Đi qua dòng nước
|
Kết quả
|
Danh Chúa vinh hiển, người
lãnh đạo được tôn trọng, kẻ thù khiếp sợ.
|
Danh Chúa vinh hiển, người
lãnh đạo được tôn trọng, kẻ thù khiếp sợ.
|
B.
KHÁC NHAU:
NỘI DUNG
|
VƯỢT BIỂN ĐỎ
|
VƯỢT GIÔ ĐANH
|
Thời gian chuẩn bị
|
Không có
|
3 ngày 3 đêm (kỳ tịnh tâm)
|
Người lãnh đạo trực tiếp
|
Môi-se
|
Giô-suê
|
Được dẫn dắt bởi
|
Trụ mây trụ lửa
|
Hòm Giao ước & Thầy tế
lễ
|
Cách thực hiện
|
Môi-se giơ tay ra trên biển
|
Thầy tế lễ bước chân xuống
|
Vị trí kẻ thù
|
Ở sau lưng
|
Ở trước mặt
|
Kẻ thù
|
Pha ra ôn
|
Các vua Ca-na-an
|
Ý nghĩa
|
Bị truy đuổi
|
Chinh phục
|
Mục tiêu
|
Đi ra khỏi Ai cập
|
Đi vào đất hứa
|
Mạng lệnh
|
Không
|
Ghi nhớ bằng đài tưởng niệm
|
Hai biến cố xảy ra ở đầu
và cuối của khoảng thời gian 40 năm đánh dấu hai thời điểm quan trọng trong hành
trình của Y-sơ-ra-ên: Ra khỏi Ai cập và vào Đất hứa. Vì là hai giai đoạn khác
nhau nên mang ý nghĩa khác nhau như đã thấy. Hai biến cố trên gợi ý về hai biến
cố quan trọng trong đời sống thuộc linh của Cơ đốc nhân: Phép báp têm bằng nước
và báp têm bằng Đức Thánh Linh (So sánh I Cor 10:1-11 và Mat 3:11, Lu 3:16,
Công 1:5, 19:2). Phép báp tem tại Biển Đỏ được thực hiện theo sự đòi hỏi của luật
pháp, nhưng phép báp têm tại Giô đanh để làm theo giao ước với Chúa. Phép báp
têm bằng nước hướng về sự đồng chết người cũ và sống lại người mới trong Chúa.
Phép báp têm bằng Đức Thánh Linh hướng đến sự lột bỏ tánh xác thịt để sống theo
Thánh Linh, kinh nghiệm đời sống phước hạnh trong Chúa.
Đời sống theo Chúa của
Cơ-đốc nhân là một tiến trình. Giống như dân Y-sơ-ra-ên, họ ra khỏi Ai cập là để
vào đất hứa. Tuy nhiên, để đến được đất hứa, họ cần vượt qua Biển Đỏ và
Giô-đanh. Cũng vậy, đời sống một Cơ-đốc nhân bắt đầu khi người ấy đến với Chúa,
được cứu khỏi ách nô lệ của tội lỗi, được tái sanh và nhận báp tem bằng nước để
chính thức trở thành công dân của Nước Trời. Tuy nhiên, để đắc thắng và trải
nghiệm phước hạnh thật sự, người ấy phải nhận được báp tem bằng Đức Thánh Linh
(Công 19:1-7). Báp tem bằng Đức Thánh Linh là một biến cố quan trọng đánh dấu sự
chấm dứt đời sống cũ, đắc thắng xác thịt và nhận lấy năng quyền từ nơi Chúa để
hầu việc Ngài. Báp têm bằng Đức Thánh Linh là một kinh nghiệm cần thiết giúp
Cơ-đốc nhân nhận lấy năng quyền để đối đầu ma quỉ trong cuộc chiến thuộc linh.
Một chi tiết đáng chú ý
là khi đi qua Biển Đỏ, Chúa không truyền cho Y-sơ-ra-ên lập đài tưởng niệm
nhưng khi đi ngang qua Giô-đanh, Chúa truyền cho họ lập đài tưởng niệm để ghi
nhớ khi họ vượt qua Giô-đanh. Điều này ẩn chứa một dạy dỗ thú vị cho Cơ-đốc
nhân ngày nay.
1. Tìm Hiểu Về Địa Danh Giô-đanh
Không có con sông nào
trong Thánh Kinh lại mang nhiều ý nghĩa như sông Giô-đanh. Thật ra Giô-đanh là
phần đất sụt xuống như một thung lũng giửa hai rặng núi. Các thượng nguồn của
sông được cung cấp nước bởi những con suối và đều chảy vào hồ Hu-lê, 70 mét cao
hơn mặt biển. Cách 10 km về phía nam gần Hồ Ti-bê-ri-át, mặt sông lại thấp hơn
Địa Trung Hải gần 200 mét, khi gần đến Biển Chết mặt nước lại thấp hơn 177 mét
nữa, tổng cộng sông Giô-đanh thấp hơn 393 mét so với mặt biển, tạo thành một
dòng sông chảy xiết. Vì thế tên Giô-đanh có nghĩa là “Con Sông chảy xuống”.
Dòng sông dài khoảng 120 km từ hồ Hu-lê đến Biển chết, trải qua những khúc uốn
lượn quanh co. Nơi hạ lưu sông Giô-đanh, là nơi Chúa Giê-xu đã từng chịu phép
báp tem để bắt đầu chức vụ.
2. Sự Chuẩn Bị Bên Mé Sông Giô-đanh (3:1-13)
Khác hẳn với bầu không
khí khẩn trương gấp rút tại Biển Đỏ, việc vượt sông Giô-đanh được chuẩn bị một
cách chậm rãi và trật tự.
a. Kỳ tịnh tâm để biệt
riêng ra thánh (c.1-2): Khi đến mé sông Giô-đanh, thay vì đi ngay. Giô-suê truyền
cho dân sự đóng trại tại đó đến cuối 3 ngày.
Người kể chuyện không nói rõ tại sao dân Y-sơ-ra-ên
không qua sông ngay mà dừng lại đến cuối ba ngày. Tuy nhiên nếu so sánh với Giô
4:19 và 5:10, đây là thời điểm trước ngày Lễ Vượt Qua của dân Y-sơ-ra-ên, đây
cũng là thời điểm lịch sử mà bốn mươi năm trước Môi-se cũng đã dẫn dân
Y-sơ-ra-ên đi qua Biển Đỏ (Xuất 14: ). Dân Y-sơ-ra-ên thường biệt riêng thì giờ
trước lễ Vượt Qua để cầu nguyện và xét mình trước khi dự lễ. Có thể coi đây là
kỳ tịnh tâm cần thiết để dân sự Chúa nhớ lại những gì Chúa đã làm cho mình và dọn
mình thanh sạch để ra mắt Chúa.
b. Thiết lập thứ tự ưu
tiên (3-6): Sau ba ngày, Giô-suê truyền lệnh cho dân sự ra đi. Đội hình di chuyển
của họ theo thứ tự: Hòm Giao ước và Các Thầy Tế lễ đi trước, kế đến là dân sự
đi theo với khoảng cách khoảng 900 mét.
Khác hơn đội hình khi ra
khỏi Ai cập, sự dẫn dắt của trụ mây và trụ lửa bây giờ thay thế bằng chiếc Hòm
Giao ước, cả hai đều có chung một ý nghĩa là bày tỏ sự hiện diện của Chúa giữa
dân sự. Điều này dạy rằng để được Chúa ban phước, Y-sơ-ra-ên cần phải để Chúa
đi trước mình. Chúa phải là ưu tiên một trong đời sống của những ai muốn bước
theo Ngài.
3. Phép Lạ Tại Giô-đanh (3:8-17)
Khi dân Y-sơ-ra-ên đi
theo mạng lệnh của Chúa, phép lạ đã xảy ra. Một lần nữa Đức Chúa Trời đã rẽ
sông Giô-đanh cho dân sự Ngài đi qua. Những gì tác giả thuật lại qua phép lạ tại
Giô đanh cho thấy quyền năng và sự dẫn dắt kỳ điệu của Chúa.
“Vả, trọn lúc mùa gặt, sông Giô-đanh tràn lên khỏi bờ - Khi các người
khiêng hòm đến sông Giô-đanh, và chân của những thầy tế lễ khiêng hòm mới bị ướt
nơi mé nước, 16 thì nước ở trên nguồn thường
chảy xuống bèn dừng lại, dồn thành một đống… rồi dân sự đi qua đối ngang Giê-ri-cô. 17 Những
thầy tế lễ khiêng hòm giao ước của Đức Giê-hô-va dừng chân vững trên đất khô giữa
sông Giô-đanh, trong khi cả Y-sơ-ra-ên đi qua trên đất khô, cho đến chừng cả
dân đã qua khỏi sông Giô-đanh rồi.”
Một chi tiết thú vị, người kể chuyện không làm cho người
nghe phải thắc mắc khi ghi rõ đây là thời gian của mùa gặt, khi mà nước sông
Giô-đanh tràn lên khỏi bờ. Các Thầy Tế
lễ khiêng hòm không phải bước xuống dưới sông, mà khi chân của họ vừa dẫm lên
phần nước tràn trên bờ thì Chúa đã
làm cho nước sông rẽ ra. Dòng sông đang chảy xiết thì bổng nhiên dừng lại thành
một đống xa một khoảng đến thành A-đam bên cạnh Xát-than để dân sự đi ngang qua
sông ngay trước mặt kẻ thù.
Khi các Thầy Tế lễ khiêng hòm đi đến giữa sông,
Giô-suê truyền cho họ khiêng hòm và đứng tại đó đến chừng cả dân Y-sơ-ra-ên đi
qua khỏi sông. Điều này cũng giống như khi
dẫn dân Y-sơ-ra-ên đi qua biển đỏ trong Xuất 14:19 “Thiên sứ Đức
Chúa Trời đã đi trước trại quân của dân Y-sơ-ra-ên lộn lại đi sau; còn trụ mây
vốn đi trước trại quân, lại ở về sau. Hình
ảnh này thật kỳ diệu để nói lên sự che chở dẫn dắt của Chúa đối với con cái
Ngài.
Đức Chúa Giê-xu xứng đáng
để được đi trước con cái Ngài. Nhưng không phải lúc nào Ngài cũng nắm giữ sự ưu
tiên này. Có lúc Ngài cũng đi sau họ, thậm chí tình nguyện nhận lấy một vị trí
thấp hơn vì lợi ích của họ (Giăng 13:1-13, Phi 2:1-6). Thật đáng ngợi khen thay
tình yêu cao quí của Ngài.
II. ĐÀI TƯỞNG NIỆM TẠI GHINH-GANH (4:1-24)
“Khi cả dân
đã qua khỏi Giô-đanh rồi, Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Giô-suê rằng: 2 Hãy chọn trong dân sự mười hai người, mỗi chi
phái một người; 3 rồi truyền lịnh nầy cho các
người đó: Hãy lấy mười hai hòn đá tại đây giữa sông Giô-đanh, từ nơi chân những
thầy tế lễ đứng vững, rồi đem nó theo, và đặt tại chỗ các ngươi sẽ ngủ ban đêm… Về sau, khi con cháu các ngươi hỏi rằng: Những hòn đá
nầy có nghĩa chi? 7 thì hãy đáp rằng: Ấy là
nước sông Giô-đanh đã rẽ ra trước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va; khi hòm đi
ngang qua sông Giô-đanh; thì nước sông bèn rẽ ra; các hòn đá nầy dùng cho dân
Y-sơ-ra-ên làm kỷ niệm đời đời.”
Đây không phải là lần duy
nhất Chúa truyền cho Y-sơ-ra-ên phải làm một điều gì đó để kỷ niệm (Xuất 3:15,
13:3,9, 17:14, 28:12, I Cor 11: 24-27). Đức Chúa Trời luôn muốn con cái Ngài ghi
nhớ việc Ngài đã làm cho họ. Nhớ lại những việc Chúa làm cho mình giúp nhận biết
ý muốn Chúa và cố gắng làm đẹp lòng Ngài.
1. Mạng Lệnh Chúa Truyền Về Việc Lập Đài Tưởng Niệm (4:1-7)
a. Hãy chọn
trong dân sự mười hai người, mỗi chi phái một người. Hình ảnh nói lên sự hiệp nhất của toàn dân Y-sơ-ra-ên. Không phải chỉ
một thành phần nào đó cần phải ghi nhớ, mà là toàn thể dân sự.
b. Hãy lấy mười
hai hòn đá tại đây giữa sông Giô-đanh, từ nơi chân những thầy tế lễ đứng vững. Không phải một hòn đá nào khác, mà là hòn đá nơi các
Thầy Tế lễ đương đứng lên trên. Một sự nhắc nhỡ cần thiết cho dân sự Chúa về việc
ghi nhớ công lao của những người Đức Chúa Trời biệt riêng ra để giúp đỡ dân sự
(Hêb 13:7,17)*.
c. Hãy đặt tại chỗ
các ngươi sẽ ngủ ban đêm …Về sau, khi
con cháu các ngươi hỏi rằng: Những hòn đá nầy có nghĩa chi? 7 thì
hãy đáp rằng…
Mục đích chính của đài tưởng
niệm là để nhớ đến những gì Chúa làm cho mình trong quá khứ. Nhìn lại quá khứ để
thấy được bàn tay tể trị của Chúa trên đời sống mình trong đó có cả phước hạnh
lẫn đau buồn. Quá khứ không phải là điều đáng để quên, nhưng để nhớ đến trong ý
muốn tốt lành của Chúa để biết ơn Ngài.
2. Đài Tưởng Niệm Dưới Đáy Sông (4:8-18)
Cần phân biệt giữa đài tưởng
niệm Chúa truyền phải lập tại Ghinh ganh và đài tưởng niệm mà Giô-suê truyền dựng
lên giữa sông Giô-đanh. Bản Kinh Thánh Hy lạp phân biệt rõ đây là 12 tảng đá
khác mà Giô-suê truyền dựng ở đáy sông. Một số nhà giải kinh cho rằng đài tưởng
niệm ở đáy sông Giô-đanh không phải là một đài tưởng niệm của quốc gia, nhưng
là một đài tưởng niệm cá nhân mà Giô-suê muốn lập lên để ghi nhớ dấu chân của
ông cùng những người theo ông đã bước qua đó.
So sánh với đài tưởng niệm
tại Ghinh-ganh mà Chúa truyền phải làm trên đất, đài tưởng niệm của Giô-suê được
đặt tại đáy sông, nơi sâu nhất của dòng sông, nơi mà dòng nước sau đó sẽ khỏa lấp
nó. Sẽ không ai thấy đài tưởng niệm này ngoại trừ những người đã từng bước đi
qua đó. Đài tưởng niệm ở đáy không không lập nên để khoe khoang, nhưng chỉ để
ghi nhớ những gì Chúa làm trên đời sống những người theo Ngài. Bên cạnh những kỷ
niệm về Đức Chúa Trời luôn có những kỷ niệm của con cái Ngài. Càng tận hiến cuộc
đời để sống vì người khác, người hầu việc Chúa càng có nhiều kỹ niệm đẹp để ghi
nhớ.
3. Đài Tưởng Niệm Tại Ghinh-ganh (4:19-24)
Sau khi qua khỏi sông
Giô-đanh, dân Y-sơ-ra-ên khoảng một ngày đường và đóng trại tại Ghinh-ganh, một
nơi nằm giữa Giê-ri-cô và Giô-đanh. Tại đây Giô-suê truyền cho dân Y-sơ-ra-ên dựng
đài tưởng niệm theo lệnh truyền của Chúa.
Địa danh Ghinh-ganh có thể
mang nghĩa là “vòng tròn sắp đặt từ những hòn đá” hoặc sự “lăn tròn”. Ý nghĩa của
địa danh này đã được xác định trong Giô 5:9 “Bấy giờ, Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê rằng: Ngày
nay ta đã cất khỏi các ngươi sự xấu hổ của xứ Ê-díp-tô. Nên người ta gọi chỗ ấy
là Ghinh-ganh cho đến ngày nay”. Chữ “cất khỏi” ở đây còn có nghĩa là “lăn ra khỏi” (rolled away). Tại
Ghinh-ganh, Chúa “lăn ra” khỏi Y-sơ-ra-ên sự xấu hổ nhơ nhuốc ở Ai cập. Đây
cũng là động từ chỉ về việc Thiên sứ lăn hòn đá ra khỏi mộ phần sau khi Chúa
Giê-xu sống lại. Chúa Giê-xu phục sinh đem đến sự đắc thắng cho con cái Ngài.
Nhờ vào sự sống phục sinh của Chúa, Cơ-đốc nhân có thể thắng hơn những sự cám
dỗ của xác thịt và sống đời sống vinh hiển danh Chúa.
Ghinh-ganh thực sự là một địa danh đáng
nhớ đối với Y-sơ-ra-ên và cũng đáng nhớ đối với Cơ-đốc nhân trên bước đường
theo Chúa:
Ý Nghĩa đối với
Y-sơ-ra-ên
|
Ý nghĩa đối với CĐN
|
Chúa cất sự xấu hổ tại
Ai cập
|
Chúa giúp thoát khỏi
đời sống thất bại của xác thịt
|
Tổng hành dinh của
Y-sơ-ra-ên dùng để tấn công Giê ri cô
|
Tổng hành dinh của
Cơ-đốc nhân để chiến đấu trong cuộc chiến thuộc linh
|
Ghi nhớ phép lạ Chúa
làm cho Y-sơ-ra-ên
|
Ghi nhớ phép lạ Chúa
làm cho CĐN
|
Nơi cả Y-sơ-ra-ên chịu
cắt bì
|
Nơi CĐN thoát khỏi tánh
xác thịt (Côl 2:11)
|
Nơi cả Y-sơ-ra-ên dự Lễ
Vượt qua đầu tiên tại Ca na an
|
Nơi CĐN nhờ Chúa vượt
qua đời sống cũ và kinh nghiệm sự đắc thắng
|
Nơi ma na không còn ban
xuống
|
Nơi đánh dấu sự trưởng
thành thuộc linh
|
III. NHỮNG NGHI LỄ TẠI GHINH-GANH (5:1-12)
Có hai nghi lễ quan trọng
Chúa truyền Y-sơ-ra-ên phải tuân giữ khi ở tại Ghinh-ganh:
1. Phép Cắt Bì (5:1-8)
Là nghi lễ khó “diễn tả”
nhất trong tất cả những nghi lễ Chúa truyền cho dân Y-sơ-ra-ên phải tuân giữ.
Nguồn gốc của phép cắt bì bắt nguồn từ thời Môi-se (Xuất 4:24). Chúa truyền cả
Y-sơ-ra-ên và người ngoại bang theo Chúa phải tuân giữ (Xuất 12:44). Lúc đầu là
chỉ dành cho trẻ con, nhưng về sau áp dụng cho cả người trưởng thành (Giô
5:2-5). Về sau thời Tân ước giải thích ý nghĩa và mục đích của phép là để “lột
bỏ tánh xác thịt” (Col 2:11). Cơ-đốc nhân ngày nay không nhận được mạng lệnh phải
chịu phép cắt bì trong thân thể (Ga 5:2,12), nhưng vẫn phải giữ phép cắt bì thuộc
linh, tức phải lột bỏ tánh xác thịt và sống theo Thánh Linh của Chúa (Ga
5:16-25).
Tại Ghinh-ganh, Chúa truyền
cho Giô-suê phải sắm sửa những con dao bằng đá lửa để cắt bì cho tất cả dân sự.
Lý do của nghi lễ được giải thích là vì những người ra khỏi Ai cập trước đó bốn
mươi năm đều đã chết, những người đang sống đều chưa chịu phép này.
Không ai có thể đắc thắng
cho Chúa nếu vẫn sống trong đời sống yếu đuối xác thịt. Điều quan trọng của
phép cắt bì không phải là một dấu hiệu bề ngoài mà là dấu hiệu bên trong khi một
người đầu phục Đức Thánh Linh. Toàn dân Y-sơ-ra-ên ngày xưa phải chịu cắt bì
trước khi đánh chiếm xứ, cũng vậy ngày nay con cái Đức Chúa Trời cần phải lột bỏ
tánh xác thịt để đắc thắng cho Ngài.
2. Giữ Lễ Vượt Qua Lần Thứ Nhất Tại Ghinh-ganh (5:9-12)
Sau khi thực hiện phép cắt
bì cho dân sự, Chúa truyền cho họ giữ Lễ Vượt Qua. Đây là Lễ Vượt Qua đầu tiên
mà dân Y-sơ-ra-ên dự tại Ca-na-an. Ghinh-ganh cũng đánh dấu một chuyển biến
quan trọng cho dân Y-sơ-ra-ên: “Chánh ngày đó, dân sự ăn thổ sản của
xứ, bánh không men, và hột rang. 12 Ngày mà
chúng đã ăn lúa mì của xứ, thì đến sáng mai ma-na hết; vậy, dân Y-sơ-ra-ên
không có ma-na nữa, nhưng trong năm đó ăn những thổ sản của Ca-na-an”.
Không thể nào tả xiết nỗi
vui mừng của dân Y-sơ-ra-ên khi lần đầu tiên họ hưởng lấy hương vị của những thổ
sản của xứ thánh, nơi đượm sữa và mật mà Đức Chúa Trời ban cho. Nhưng khi họ nhận
được đều Chúa hứa, cũng là lúc ma na không còn ban xuống. Bắt đầu từ
Ghinh-ganh, dân sự được hưởng phước lành Chúa cho, nhưng họ phải tiếp tục “vun
trồng” và “gìn giữ” những thành quả đó. Chúa ngưng ban ma na không có nghĩa
Ngài ngưng tiếp trợ, nhưng Đức Chúa Trời tiếp trợ họ một cách khác hơn. Tại đồng
vắng, mỗi người chỉ lượm ma na đủ dùng cho mình mà không được lượm nhiều hơn,
nhưng tại Ca-na-an họ được tự do thâu trữ sản vật của xứ. Nhưng để hưởng được
lâu dài, họ cần phải tiếp tục chinh phục cho đến khi hoàn toàn chiếm xứ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét